Chất urea là chất gì? Thừa hoặc thiếu chất này có ảnh hưởng đến cơ thể con người như thế nào?”.
Urea là tiếng nước ngoài, tiếng Việt gọi là urê.
Urê là sản phẩm cuối cùng của chuyển hóa chất đạm (protein) trong cơ thể, được thải ra ngoài cơ thể qua thận. Nói như vậy có nghĩa urê luôn có trong cơ thể, hằng ngày ăn thịt cá trứng sữa là chất đạm (protein) là đương nhiên có bổ sung urê.
Chất đạm ta ăn uống hằng ngày gọi là protein ngoại sinh được các protease của đường tiêu hóa, chuyển hóa tạo nên các axít amin. Các axít amin được chuyển hóa tiếp cuối cùng chủ yếu thành NH3 và CO2.
NH3 là chất độc được chuyển hóa thành urê là chất rất ít độc ở gan. Tất cả các rối loạn chức năng gan đều sẽ làm quá trình chuyển hóa NH3 thành urê bị suy giảm nhiều hay ít. Rối loạn này sẽ gây hậu quả tích tụ NH3 một chất độc đối với thần kinh với nguy cơ gây bệnh não do tăng amoniac đưa đến hôn mê gan. Riêng urê từ gan vào máu được vận chuyển đến thận và được đào thải ra ngoài theo nước tiểu (nước tiểu có mùi khai vì urê chuyển hóa trở lại thành NH3 gây khai).
Urê hòa tan dễ dàng trong nước, nên nước tiểu là đường loại bỏ lượng nitơ hữu hiệu nhất ra khỏi cơ thể. Một người trưởng thành bài tiết mỗi ngày trung bình khoảng 30g urê, chủ yếu qua nước tiểu, nhưng một lượng nhỏ cũng được bài tiết qua mồ hôi. Người khỏe mạnh là người bài tiết urê tốt và lượng urê trong máu nằm trong ngưỡng giới hạn bình thường.
Một người trưởng thành bài tiết mỗi ngày khoảng 30g ure
Urê tương đối ít độc, kể cả lúc đậm độ của nó trong máu khá cao. Tuy nhiên, để đánh giá khả năng lọc của thận, người ta thường dựa vào chỉ số urê máu: chỉ số này càng cao thì chức năng thận càng kém. Và người ta cho người bệnh làm xét nghiệm urê máu kiểm tra đo lượng nitơ urê trong máu. Xét nghiệm urê máu còn gọi là xét nghiệm BUN (viết tắt của Blood Urea Nitrogen tức đo lượng nitơ urê trong máu). Nếu xét nghiệm máu cho thấy rằng mức độ nitơ urê cao hơn bình thường, nó có thể chỉ ra rằng thận không hoạt động bình thường.
Đậm độ bình thường của urê máu là 0,2 - 0,4 g/lít. Giới hạn này cũng có thể nới rộng ra: 0,1 - 0,5 g/lít. Trong phạm vi đó, chức năng thận được xem là bình thường. Chỉ số urê máu vượt quá ngưỡng trên có nghĩa là thận hoạt động kém hơn bình thường.
Cần chú ý là urê máu dễ thay đổi theo chế độ ăn uống (ăn nhiều đạm thì urê máu cũng tăng theo). Vì vậy, việc đánh giá không được chính xác lắm. Thay vì đo urê máu, người ta thường đo creatinin máu hơn. Creatinin là một sản phẩm thoái hóa của creatine phosphate, được sinh ra trong quá trình co giãn cơ bắp của cơ thể. Cũng giống như nitơ urê máu, creatinin được thải hoàn toàn bởi thận. Đo đậm độ creatinin máu chính xác hơn vì nó không phụ thuộc vào ăn uống và bình thường không đổi nếu chức năng bài tiết của thận hoạt động bình thường (creatinin máu bình thường là 16g/lít).
Nồng độ urê cao cho thấy chức năng thận suy giảm. Điều này có thể là do bệnh thận cấp tính hoặc mãn tính. Tuy nhiên, có rất nhiều điều ngoài bệnh thận có thể ảnh hưởng đến nồng độ urê chẳng hạn như giảm lưu lượng máu đến thận như trong suy tim sung huyết, sốc, căng thẳng, đau tim hoặc bị bỏng nặng, chảy máu đường tiêu hóa, điều kiện gây tắc nghẽn dòng chảy nước tiểu, hoặc mất nước.
Nồng độ urê thấp là không phổ biến và thường không phải là một nguyên nhân quan tâm. Nó có thể được nhìn thấy trong bệnh gan nặng hoặc suy dinh dưỡng nhưng không được sử dụng để chẩn đoán hay theo dõi bệnh lý này. Urê thấp cũng được nhìn thấy trong thời kỳ mang thai bình thường. Nồng độ urê thường thấp hơn trong thai kỳ, đặc biệt là trong những tháng cuối thai kỳ vì thai nhi sử dụng một lượng lớn protein của mẹ cho sự tăng trưởng.
PGS. TS. Nguyễn Hữu Đức